Ra nhiều mồ hôi ở bố hoặc mẹ có thể gây di truyền cho con cái. Quan điểm này đã được nghiên cứu ở trường Đại học California tại Los Angeles, Mỹ.
Cơ thể chúng ta là bộ máy tuyệt vời, tinh vi và tất cả các quá trình trong cơ thể đều làm việc theo quy định sẵn có. Bài tiết mồ hôi cũng vậy, điều hòa quá trình này là hệ thống thần kinh giao cảm. Khi não nhận được tín hiệu kích thích sẽ gửi thông tin đến các hạch giao cảm gây tiết mồ hôi nhằm mục đích đào thải chất cặn bã, ổn định thân nhiệt và cung cấp độ ẩm cho da. Nhưng khi não liên tục gửi tín hiệu cho hệ thần kinh này, cơ thể sẽ bị tiết quá nhiều mồ hôi. Mồ hôi tiết ra có thể chỉ một, hai hay thậm chí là toàn thân. Việc này không những gây ảnh hưởng đến cơ thể do mất điện giải, mất nước hay một số vitamin tan trong nước, gây viêm da… Nhưng trên hết tâm lý của người bệnh lại là vấn đề đáng quan tâm nhất.
Nguyên nhân thường gặp khi bị mồ hôi nhiều là do căng thẳng, stress kéo dài, phụ nữ trong thời kỳ tiền mãn kinh, mắc một số bệnh mạn tính như tiểu đường, lao… Nhưng thực tế, trong quá trình điều trị, nhiều bác sĩ thấy rằng ngày càng có nhiều trẻ em cần điều trị căn bệnh này do bố mẹ chúng mang bệnh.
Ra nhiều mồ hôi có thể di truyền từ bố mẹ sang con
Nhằm mục đích tìm hiểu mồ hôi có liên quan đến yếu tố di truyền hay không, một nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ Samuel S. Ahn, trường Đại học California tại Los Angeles đứng đầu, đã tiến hành đánh giá trên số liệu đã thu thập được.
Nghiên cứu được tiến hành ở những trẻ em bị ra nhiều mồ hôi ở lòng bàn tay. Kết quả cho thấy 63% người bệnh điều trị chứng tăng tiết mồ hôi bằng phương pháp phẫu thuật cắt hạch giao cảm có các thành viên trong gia đình cũng bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này.
Nghiên cứu cũng cho rằng, khoảng 25% con của những người bị ra nhiều mồ hôi cũng sẽ có những biểu hiện tương tự. Điều này khiến các nhà nghiên cứu cho thấy tình trạng ra nhiều mồ hôi sẽ phổ biến nhiều hơn so với con số chiếm 1% dân số bị bệnh được công bố trước đây.
Phát biểu tại buổi công bố nghiên cứu của mình, Tiến sĩ Ahn hy vọng: “Những người không mắc bệnh nên đồng cảm và loại bỏ tư tưởng kỳ thị với người bị bệnh. Bởi vì, đồng cảm chính là cách giúp họ vượt qua nỗi mặc cảm và khuyến khích họ tìm đến các giải pháp điều trị nếu thấy cần thiết”.
Biên tập viên sức khỏe Trung Mỹ
Nguồn tham khảo: http://www.nytimes.com
Tin liên quan
Viết bình luận